Tiểu sử

Bác Hồ sinh năm bao nhiêu? Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác

Bác Hồ – vị lãnh tụ đáng kính của cả dân tộc Việt Nam, Bác đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dành lại độc lập, hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Người là tấm gương sáng đời đời noi theo của của những con dân Việt Nam ta, chính vì vậy mà những thông tin như Bác Hồ sinh năm bao nhiêu hay tiểu sử về Bác luôn dành được nhiều sự quan tâm.
Cùng đón xem bài viết sau đây để biết thêm nhiều chi tiết bổ ích nhé!

I. Bác Hồ sinh năm bao nhiêu?

  • Tên Khai sinh: Nguyễn Sinh Cung
  • Bác Hồ sinh năm bao nhiêu: 19/05/1969
  • Năm mất: 02/09/1969
  • Quê quán: Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An

Bác Hồ hay còn gọi là chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng và chính khách người Việt Nam. Bác là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955 và là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1951 đến khi qua đời.

Năm 1987, ngày sinh nhật lần thứ 100 của Bác Hồ được Việt Nam đề cử UNESCO đưa vào Lịch kỷ niệm các nhân cách vĩ đại và các sự kiện lịch sử năm 1990 – 1991. Tuy nhiên do sự phản đối của một số người tại Pháp cũng như để tránh rắc rối chính trị nên UNESCO đã không in tên Bác trong Lịch kỷ niệm năm 1990 – 1991.

Tại hội thảo quốc tế “Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa lớn” tổ chức ở Hà Nội tháng 3 năm 1990, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã phát biểu: “Hội nghị UNESCO phiên thứ 24 đã quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người vào năm 1990. Đây là một cử chỉ tôn kính đối với một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập”.

Bác Hồ là người cha già vĩ đại của dân tộc
Bác Hồ là người cha già vĩ đại của dân tộc

II. Tiểu sử về cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh

Tiểu sử cuộc đời Bác gắn liền với những chuyển biến trong quá trình dành lại độc lập cùng những sự kiện quan trọng của dân tộc ta. Phải nói rằng Bác là một con người vĩ đại đã dành hết cả cuộc đời mình cho đất nước cho dân tộc.
Bác sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, các anh chị em trong gia đình đều là những người tham gia kháng chiến. Bác được nuôi dưỡng và lớn lên bởi mảnh đất là cái nôi giàu truyền thống anh dũng, bất khuất chống giặc ngoại xâm. Sớm nhận thấy cảnh cơ cực của dân tộc đang bị dẫm đạp dưới chân của bọn thực dân nên Nguyễn Sinh Cung đã nuôi ý chí đánh đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

  • 6/1911, Nguyễn Sinh Cung đã quyết tâm đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.
  • 03/6/1911, Bác nhận thẻ nhân viên lên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin với cái tên là Văn Ba. Hai ngày sau, 05/6/1911 con xuất phát từ bến cảng Nhà Rồng đi nước Pháp.
  • 1912 – 1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Bác đã đến rất nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động. Qua thực tiễn, Bác sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa.
  • Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua.
  • Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922).
  • Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân.
  • Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam.
  • Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927).
  • Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức “Cộng sản đoàn” làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
  • Năm 1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).
  • Năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn.
  • Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
  • Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).
  • Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.
  • 1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám.
  • Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954).
  • Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
  • Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
  • Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

(Nguồn tham khảo: Thông tin chính phủ và văn kiện của Đảng)

III. Sự ảnh hưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến ngày nay

Tại Việt Nam, hình ảnh Hồ Chí Minh phổ biến khắp nơi như là một tấm gương sáng về đạo đức, một nhân cách cao thượng và được coi là một hình mẫu cần học tập. Những tác phẩm nói về Hồ Chí Minh thường ca ngợi những đức tính tốt đẹp của ông.
Các cấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Hồ Chí Minh. Mỗi năm, chính quyền và Đảng bộ đều tổ chức các cuộc thi Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho nội bộ lẫn quần chúng.

Bác Hồ luôn là một "vĩ nhân" của Việt Nam
Bác Hồ luôn là một “vĩ nhân” của Việt Nam

Có thể thấy rằng, cho dù thời gian là bao  lâu đi nữa thì trong lòng những người dân Việt Nam, Bác luôn là vị cha già kính yêu có tầm ảnh hưởng lớn đến toàn dân tộc.